Trương Kim Anh, K23
(Sưu Tầm)
B-2 Spirit, do Northrop Grumman sản xuất, là loại oanh tạc cơ đa nhiệm vụ được trang bị kỹ thuật tàng hình, mang bom thông thường và bom hạt nhân. Chiếc oanh tạc cơ này là một mốc quan trọng trong chương trình hiện đại hóa oanh tạc cơ của Hoa Kỳ. B-2 là loại máy bay đắt nhất từng được sản xuất, ước tính chi phí cho mỗi chiếc từ khoảng 1.157 tỷ tới 2.2 tỷ đô-la. Kỹ thuật tàng hình thế hệ 2 được áp dụng nhằm giúp máy bay có thể xâm nhập qua các hàng rào phòng không dày đặc mà các chiến đấu cơ trước đây không thể vượt qua. Số lượng đặt hàng dự tính ban đầu là 135 chiếc đã được giảm xuống còn 75 vào cuối thập niên 1980. Trong Thông Điệp Liên Bang năm 1992, Tổng thống George H.W. Bush đã thông báo tổng số B-2 chế tạo sẽ hạn chế ở mức 20 chiếc (sau này đã tăng lên 21 nhờ việc tân trang lại một chiếc thử nghiệm). Hiện tại có 20 chiếc phục vụ trong lực lượng Không Quân Hoa Kỳ sau khi một chiếc bị rơi.
Cùng với loại Pháo Đài Bay B-52 và B-1 Lancer, quân đội Hoa Kỳ cho rằng B-2 mang lại sự linh hoạt vốn có của những oanh tạc cơ có người lái. Khả năng bị nhận dạng thấp, hay các khả năng "tàng hình," cho phép nó xâm nhập qua những hàng rào bảo vệ tinh vi nhất của đối phương và tấn công các mục tiêu được bảo vệ kỹ càng nhất.
Khả năng tàng hình của B-2 có được là nhờ sự phối hợp giữa việc giảm thiểu tín hiệu âm thanh, hồng ngoại, điện từ, quang học và radar phát ra, khiến đối phương rất khó phát hiện, theo dõi và tiêu diệt. Nhiều đặc tính tàng hình vẫn được xếp vào hàng tối mật; tuy nhiên các vật liệu bằng hợp chất để chế tạo B-2, đặc biệt và các lớp phủ bên ngoài và thiết kế kiểu cánh bay cũng góp phần tăng khả năng tàng hình của nó.
B-2 có một phi đội hai người; một phi công ngồi bên trái và một chỉ huy ở bên phải, so với phi đội bốn người của B-1B và năm người của B-52.
Lịch Sử Hoạt Động
B-2 bắt đầu xuất hiện với tư cách là một dự án mật được gọi là Oanh Tạc Cơ Xâm Nhập Tầm Cao (HAPB), sau này đổi thành Oanh Tạc Cơ Kỹ Thuật Hiện Đại (ATB) và từ khóa của dự án là Senior Cejay. Sau này được đổi thành B-2 Spirit. Ước tính 23 tỷ đô-la đã được chi tiêu bí mật cho việc nghiên cứu và phát triển B-2 trong thập niên 1980. Một khoản chi phụ thêm do việc thay đổi vai trò của nó năm 1985 từ oanh tạc cơ tầm cao thành oanh tạc cơ tầm thấp, khiến phải thiết kế lại hầu như toàn bộ. Vì việc phát triển chiếc B-2 là một trong những chương trình bí mật nhất của Quân Đội Hoa Kỳ, công chúng không hề biết để chỉ trích về chi phí quá đắt đỏ cho việc phát triển nó. Chiếc B-2 đầu tiên được trưng bày trước công chúng ngày 22 tháng 11 năm 1988, khi nó lăn bánh ra khỏi nhà chứa tại Air Force Plant 42, Palmdale, California, nơi sản xuất. Chuyến bay đầu tiên của nó diễn ra ngày 17 tháng 7 năm 1989. Cơ quan thử nghiệm B-2, Trung tâm thử nghiệm bay không quân, Căn cứ không quân Edwards, California, chịu trách nhiệm thử nghiệm bay, kỹ thuật, chế tạo và phát triển loại máy bay này.
Chiếc đầu tiên, được đặt tên Spirit of Missouri, được chuyển giao ngày 17 tháng 12 năm 1993. Trách nhiệm bảo trì B-2 thuộc nhà thầu hỗ trợ của Không Lực Hoa Kỳ và do Trung tâm hậu cần không quân thành phố Oklahoma tại Căn cứ không quân Tinker ở Oklahoma điều hành.
Nhà thầu hàng đầu, chịu trách nhiệm thiết kế tổng thể và phối hợp là Northrop Grumman Integrated Systems Sector. Boeing Integrated Defense Systems, Hughes Aircraft (hiện là Raytheon), General Electric Aircraft Engines và Vought Aircraft Industries, đều là các thành viên của đội nhà thầu. Một nhà thầu khác, chịu trách nhiệm về các trang bị huấn luyện phi công (hệ thống huấn luyện vũ khí và huấn luyện nhiệm vụ) là Link Simulation & Training, một chi nhánh của L-3 Communications trước kia là Hughes Training Inc. (HTI). Link Division, trước kia là CAE - Link Flight Simulation Corp. Link Simulation & Training chịu trách nhiệm phát triển và phối hợp tất cả đội bay và các chương trình huấn luyện bảo trì. Các nhà thầu quân sự của chiếc B-2 đã lao vào một chiến dịch lobby mạnh mẽ để giành được sự ủng hộ tài chính từ phía Quốc Hội.
Căn cứ không quân Whiteman tại Missouri là căn cứ hoạt động duy nhất của B-2 cho tới tận đầu năm 2003, khi các cơ sở kỹ thuật cần thiết cho B-2 được xây dựng tại căn cứ quân sự chung Hoa Kỳ/Anh Quốc trên đảo Diego Garcia thuộc Anh tại Ấn Độ Dương, sau đó là tại Guam năm 2005. Các cơ sở kỹ thuật cho loại máy bay này cũng đã được xây dựng tại RAF Fairford ở Gloucestershire tại Anh Quốc.
Vẫn còn những nghi ngờ về giá thành ngày càng tăng của chương trình: một số người đã cho rằng chi phí khổng lồ đó có thể bao gồm cả chi phí cho các chương trình bí mật khác. Con số chi tiêu cũng có thể được giải thích một phần bởi số lượng nhỏ máy bay được chế tạo cộng với chi phí nghiên cứu cao cho chương trình B-2.
Các onh tạc cơ này ban đầu được kiến tạo để ném bom hạt nhân thời Chiến Tranh Lạnh khi chi tiêu quốc phòng bị giảm bớt. Tháng 5, 1995, trong một cuộc điều tra do Quốc Hội tiến hành, Viện Phân Tích Quốc Phòng kết luận rằng, sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã, nhu cầu cho loại B-2 không còn nữa.
Chiến Đấu
B-2 đang thả bom |
B-2 bắt đầu tham chiến trong Chiến tranh Kosovo năm 1999. Chiếc B-2 là máy bay đầu tiên sử dụng Vũ Khí Tấn Công Có Điều Khiển (JDAM) trong chiến tranh. Từ đó, chiếc máy bay này đã hoạt động tại Afghanistan trong Chiến dịch Tự Do Vĩnh Viễn và tại Iraq trong Chiến dịch Tự Do Iraq.
Sau khi ném bom các mục tiêu tại Afghanistan, chiếc máy bay này hạ cánh tại Diego Garcia, tiếp tế nhiên liệu và thay thế phi đội cho lần oanh kích tiếp theo. Trong chiến dịch tại Iraq nó còn phải bay xa hơn, bởi B-2 đóng tại căn cứ Diego Garcia.
Những phi vụ sau này ở Iraq diễn ra từ Căn cứ không quân Whiteman ở Missouri. Điều này khiến nhiều phi vụ kéo dài hơn 30 giờ và một phi vụ đã kéo dài hơn 50 giờ. Chiếc B-2 có khả năng tự động cao, không như những máy bay chiến đấu một người lái, một thành viên đội bay có thể ngủ, sử dụng phòng vệ sinh hay chuẩn bị bữa ăn nóng trong khi người kia điều khiển máy bay.
Bản báo cáo Hàng năm của Cơ Quan Kiểm Định và Đánh Giá Hoạt Động của Bộ Quốc Phòng năm 2003 ghi chú rằng khả năng hoạt động của B-2 trong năm 2003 vẫn chưa tương xứng, chủ yếu bởi việc bảo trì các vật liệu tàng hình của nó. Bản báo cáo cũng lưu ý rằng các trang bị điện tử tự vệ trên máy bay vẫn còn có một số thiếu sót khi đưa ra lời cảnh cáo về nguy cơ. Dù có những vấn đề đó, B-2 vẫn có thời gian hoạt động cao trong Chiến Dịch Iraq Tự Do, ném 583 quả bom JDAM trong cuộc chiến.
B-2 đã được Hoa Kỳ dùng trong cuộc Nội chiến Lybia cùng Liên quân NATO để ủng hộ lực lượng nổi dậy của Lybia năm 2011.
Nhược Điểm
Một trong các nhược điểm của B-2 là lớp vỏ cực kỳ nhạy cảm khiến nó không thể hoạt động trong mọi loại thời tiết vì rất dễ hỏng, đặc biệt là trong mưa và cũng có thể bị hỏng bởi nhiệt độ cao và độ ẩm nên đòi hỏi phải có một trung tâm bảo trì đặc biệt. Và cũng chính vì bay trong mưa mà một chiếc B-2 đã rơi khi nước thấm qua lớp vỏ và làm ướt các bộ phận điện tử bên trong.
Do B-2 là một loại máy bay tàng hình nên nó phải hoạt động một mình để đảm bảo tính tàng hình và bắt buộc không được nhận bất kỳ sự hộ tống nào. Nên trong trường hợp bị phi cơ đối phương phát hiện, B-2 chắc chắn sẽ bị bắn rơi vì nó không có khả năng tự vệ.
Những miếng kim loại của phần đuôi, giữa các động cơ của B-2, bị rạn nứt do hiện tượng "mỏi của vật liệu - fatigue of materials" đây là một lỗi đã được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1990. Dù được thay thế nhưng các tấm kim loại này vẫn mòn nhanh hơn dự tính, gây khó khăn lớn cho việc bão trì. "Chúng tôi sợ rằng các tấm kim loại này sẽ làm B-2 nghỉ hưu sớm hoặc sẽ nhận được một hóa đơn thanh toán với giá không thể chấp nhận được." Dù vậy việc sản xuất các tấm thay thế cũng đang được tiến hành đến năm 2019.
Việc trang bị truyền động điều khiển từ gián tiếp của máy bay gặp trục trặc được đưa ra ánh sáng vào năm 1990. Hệ thống này gặp các vấn đề kỹ thuật nghiêm trọng. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định B-2 trong các chuyến bay. Tín hiệu từ máy tính điều khiển bay, chuyển tiếp đến hệ thống kiểm soát chuyến bay và sau đó cung cấp thông tin phản hồi cho máy tính, nếu không có nó các máy bay sẽ gặp trục trặc trong việc giữ ổn định. Do việc làm mát hệ thống này hoạt động không hiệu quả khiến cho hệ thống trở thành một trong những bộ phận gặp rắc rối nhiều nhất trên máy bay, khiến nó không thể thực hiện nhiệm vụ. Hệ thống fly-by-wire của máy bay không kết nối trực tiếp với hệ thống điều khiển mà thông qua bộ điều khiển từ xa này để thiết lập các thao tác khác nhau nên nếu nó bị hỏng thì máy bay khó có thể điều khiển được. Nên việc cố gắng tìm cách chỉnh sửa đã được tiến hành từ năm 1991 và không lực Hoa Kỳ đã phải bỏ ra gần 8 năm sau đó để có thể khắc chế vấn đề này.
B-2 cần được đại tu mỗi 7 năm một lần với chi phí trung bình khoảng 60 triệu đô-la mỗi lần và kéo dài một năm(?!). Mỗi một bộ phận là hoàn toàn riêng biệt không thể thay thế cho nhau khiến cho chi phí rất cao. Lớp sơn tàng hình của máy bay dễ bị hỏng, và chỉ cần một vết xước là máy bay sẽ hiện ra trên ra đa như một cái lon khổng lồ đang bay, vì thế nó cần được chăm sóc thường xuyên, nên với mỗi giờ bay thì máy bay cần 50 đến 60 tiếng cho việc sơn lại. Vì thế B-2 được gọi là “nữ hoàng tối thượng trong xưởng bảo trì”. Các kỹ thuật viên xem việc bảo trì lớp sơn là công việc nhàm chán và cực nhọc nhất vì không chỉ là phải cạo lớp cũ đi mà còn phải thổi nó với một thứ giống như bột mì. Ngoài ra còn phải kiểm tra tỉ mỉ máy bay xem có bất kỳ vết lõm nào không và phải làm nó phẳng như gương trước khi sơn, thời gian cho việc này không được nói đến. Sau khi lớp đầu tiên được robot phun sơn, kỹ thuật viên sẽ dùng tay đánh bóng bề mặt để có độ dày cần thiết, sau đó thực hiện lại việc này thêm vài lần nữa. Cũng như máy bay không hữu dụng lắm trong việc chỉ tham gia các trận chiến chống lại các đối thủ có kỹ thuật thấp như tại Iraq và Afghanistan. Vì thế nó còn được gọi là “Đồ vô dụng mạ vàng."
B-2 trưng bày
B-2 Spirit trưng bày tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia của Không Lực Hoa Kỳ |
Viện Bảo Tàng Hàng Không & Vũ Trụ Nam Dakota nằm bên trong căn cứ không quân Ellsworth cũng trưng bày một mẫu theo tỷ lệ 1/2 của chiếc B-2 được chính viện bảo tàng chế tạo.
Các đơn vị sử dụng B-2
- Phi đội ném bom 509, Căn cứ Không quân Whiteman
- Liên đội ném bom 13
- Liên đội ném bom 393
- Liên đội huấn luyện chiến đấu 394
- Phi đội 53, Căn cứ Không quân Eglin
- Phi đội Thử nghiệm và Đánh giá 72, Căn cứ Không quân Whiteman
- Phi đội 57, Căn cứ Không quân Nellis
- Liên đội vũ khí 325, Căn cứ Không quân Whiteman
- Phi đội vũ khí 715 không hoạt động
Đặc điểm kỹ thuật (B-2A block 30)
Tính năng chung
- Phi đội: 2
- Chiều dài: 20.9 m (69 ft)
- Sải cánh: 52.12 m (172 ft)
- Diện tích cánh: 460 m² (5.000 ft²)
- Trọng lượng không tải: 71.700 kg (158.000 lb)
- Trọng lượng có tải: 152.600 kg (371.000 kg (376.000 lb)
- Động cơ: 4 động cơ turbo cánh quạt General Electric F118-GE-100, lực đẩy 77 kN (17.300 lbf) mỗi động cơ
Tính năng bay
- Tốc độ tối đa: 1.010 km/h (410 knots, 630 mph)
- Tầm bay: 10.400 km (5.600 nm; 6.500 mi)
- Trần bay: 15.000 m (50.000 ft)
- Áp lực cánh: 329 kg/m² (67.3 lb/ft²)
- Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0.205
Vũ khí
- Ngăn chứa bom 18,000 kg (40,000 lb) loại 500 lb (Mk82) (tổng số lượng chứa: 80 quả)
- Ngăn chứa bom 12,000 kg (27,000 lb) loại 750 lb CBU (tổng số lượng chứa: 36 quả)
- 16 Máy phóng quay (RLA) gắn các loại vũ khí 2,000 lb (Mk84, JDAM-84, JDAM-102)
- 16 Máy phóng quay gắn vũ khí hạt nhân B61 hay B83
- Các trang bị điện tử và phương tiện cải tiến về sau này cho phép B-2A mang JSOW và GBU-28. Chiếc Spirit cũng được chế tạo để có thể mang hỏa tiễn AGM-158 JASSM.
Trương Kim Anh, K23
(Sưu tầm)