Mai Văn Tấn - K21
Sau ngày miền Nam bị CS cưỡng chiếm, ngoại trừ một số may mắn thoát được, tất cả quân cán chính còn lại cũng như toàn dân và đất nước VN bước vào một định mệnh đau khổ trong cuộc đổi đời đen tối. Mọi người tuyệt vọng, không biết tương lai rồi sẽ về đâu. Số người tìm cách ra đi bằng bất cứ phương tiện gì kể cả hy sinh mạng sống để tránh nạn CS. Một số lẳng lặng bước vào nhà tù CS gọi là "trại cải tạo" vì không còn cách nào khác mặc cho “Rủi may âu cũng sự đời”.
Bây giờ nhớ đến cảnh tượng không còn biết tương lai đi về đâu. Không biết phải làm gì cho đúng. Không biết sống ra sao, đầu óc trống rỗng, đứng ngồi không yên. Những khi nghĩ lại, hình như mới vừa xảy ra. Đa số Quân, Cán, Chính của VNCH năm 1976 lên đường ra Bắc sau một năm ở rải rác các trại tù miền Nam. Di chuyển bằng tàu Sông Hương cho sĩ quan từ cấp trung tá trở xuống, bằng máy bay cho cấp đại tá và hành chánh cũng như cảnh sát. Sống trên tàu đúng là địa ngục trần gian, sự hành hạ và khổ nhục gặp phải, trong đầu không bao giờ tưởng tượng được. Bởi thế phải trải qua mới biết đó là sự thật. Chuyến tàu đầu tiên ghé hải cảng Hải Phòng và tiếp tục di chuyển bằng xe hỏa, đóng cửa kín trong các toa chở súc vật, đến nỗi có người phải chết vì ngộp thở. Qua phà Sông Đà (phà Ô Lâu) di chuyển bằng xe thẳng lên Sơn La đến trại tù của Pháp để lại. Từ tàu lên, cứ đủ người cho một toa xe thì vào một toán không cần biết tên họ chỉ đủ số là đi. Vì vậy có nhiều người ở trong Nam chung một trại, khi ra Bắc không còn gặp lại nhau. Khi đến Sơn La đủ người dồn vào một nhà tù khóa cửa sáng ra mới lấy tên họ và chia từng đội, khoảng ba chục người có một tên bộ đội và hai cảnh vệ kiểm soát. Bởi thế tôi mới gặp một số người chưa bao giờ quen biết. Trong số không quen có một anh nằm gần tôi là anh H.T.Tr. phục vụ ở tiểu khu Quảng Nam. Ở đó khoảng ba tháng trại dời đến xã Mường Cơi, huyện Nghĩa Lộ cũng tỉnh Sơn La (Hoàng Liên Sơn). Anh Tr. cũng tiếp tục nằm gần tôi.
Đi đến đâu, chúng tôi cũng phải cất trại cho mình cũng như cho một số bộ đội theo canh giữ. Lần đầu chính mình làm trại nhốt mình, làm chỗ ở cho người canh giữ mình thật thấm thía “Ngẩm hay muôn sự tại Trời.” Qua một thời gian gần gũi, nhận thấy anh Tr. là người hiền lành nhưng nhút nhát, hay lo lắng bồn chồn. Nhiều đêm tôi tâm sự cùng anh và khuyên anh đừng tin CS nói mà hãy cố gắng giử gìn sức khỏe là chính. Anh có còn sống mới mong có ngày về với gia đình. Thời gian phải ở trong trại này bao lâu chắc không ai biết được. Chúng hay nói thời gian là do các anh, các anh phải cải tạo tốt mới được về lại với gia đình. Chúng nó chỉ nói thế tuỳ anh hiểu, tôi hỏi anh cải tạo tốt là như thế nào, anh không biết thì làm sao cải tạo tốt được. Nhưng trong thâm tâm anh nôn nóng làm sao để được về lại với gia đình. Chúng bảo lao động thế nào anh cố gắng làm như thế ấy mong cho tốt để được thả ra khỏi trại. Nhưng anh làm theo chúng mà anh luôn luôn đói thì làm sao sống được, anh có nghĩ điều đó không. Những điều tôi nói chắc anh cũng đã hiểu, nhưng trong lòng mong muốn về sớm với gia đình nên anh khó làm theo. Anh nói với tôi anh định trốn trại, tôi nghĩ rằng anh trốn không thoát đâu, chỉ thiệt thân thôi. Tôi không ngờ khuyên anh, anh khuyên lại tôi, rốt cuộc đường ai nấy đi, hồn ai nấy giữ. Dầu cho “Hận thù yêu thương chồng chất” mỗi người suy nghĩ một cách, làm theo ý mình không biết sao là đúng hay sai, thôi thì hạ hồi phân giải.
Trong hoàn cảnh đói khổ, người ta chỉ ước ao những điều thật tầm thường.Những ngày cuối tháng Chạp, thời tiết se se lạnh và mưa rơi lất phất “chiều Sơn La mưa rơi nhòa nước mắt”, nhưng bộ đội không cho nghỉ. Cả đội dàn ngang cuốc đất lên luống trồng su hào. Mọi người mặc đủ thứ đồ bằng bao cát hoặc quần áo vá chằng chịt. Trên đầu đủ loại mũ tự may và làm lấy, miễn sao giữ ấm là được. Mới ra Bắc khoảng sáu tháng anh em rách rưới và đói rét triền miên, thân hình chỉ có da bọc xương trông thật thê thảm. Nhìn qua anh Trọng, đội nón bao cát có hai mảnh che tai, tay cuốc, nước mũi chảy vì lạnh, nước da anh đã đen càng xạm hơn. Lúc đó tôi không nhìn được tôi, nhưng chắc cũng thê thảm lắm. Bãi đất chúng tôi cuốc đã được trồng sắn trước đó, lâu lâu anh em cuốc lại lòi một mảnh sắn nhỏ còn sót lại. Anh nào được mẩu nào thì lại đem đến chỗ đốt lửa để sưởi và để mọi người trong đội hút thuốc lào, vùi vào đấy, trở lại tiếp tục cuốc, ước tính thời gian mảnh sắn chín lấy ăn. Anh Tr. nói với tôi, ước gì có một rổ sắn để ăn cho đã thèm có chết cũng chịu. Trong hoàn cảnh đói khổ, người ta chỉ ước ao những điều thật tầm thường.
Người CS dùng điều nầy để kiểm soát bao tử, tạo cho mọi người vì cái ăn để làm những gì chúng muốn thật tàn nhẫn và không có nhân tính. Điều ao ước của anh Tr. làm tôi xúc động, lấy làm phiền muộn cho chính bản thân mình lẫn mọi người trong hoàn cảnh khốn khó. Trong thâm tâm tôi, tôi muốn kiếm cho anh một ít sắn khi có dịp thuận tiện, có “nghĩa là” đi đánh cắp của trại. Đánh cắp nếu bị bắt coi như bị cùm trong nhà kỷ luật ít nhất một tuần, còn tái phạm nhiều lần thì còn tùy để gia tăng thêm. Thành thử muốn mở một “phi vụ” thì phải cẩn thận tối đa để được an toàn. Vì vậy có một số người thà chịu đói chứ không dám đánh cắp, anh Tr. nằm trong số người nầy.
Vì tôi là lính tác chiến, dẫu sao cũng đã từng kề cận với cái chết. Hơn nữa, sống quá khốn khổ như thế nầy, tôi nghĩ chết là giải thoát. Dầu có nghĩ về gia đình, nhưng đâu có giải quyết được gì, người CS thừa gian ngoan, lừa dối, lươn lẹo, bội tín, rất thiếu nhân tính, đang trả thù lên cả chúng ta. Đó chính là nguyên nhân thúc đẩy tôi hành động liều mạng. Một bữa nọ tôi được đi kiếm củi cho đội để mang về sưởi ấm, thuận tiện tôi lấy được một bao cát sắn, tôi chia cho anh hơn phân nửa. Anh mừng quá đỗi, mang về đợi anh em lên sạp ngủ, mang ra bỏ vô lon guigoz (lon sữa bột) để vào chỗ đốt lửa để sưởi mà nấu ăn. Sáng hôm sau đi cuốc đất tiếp, anh nói lời cám ơn rối rít.
Nhưng khoảng vài ngày sau, anh bị cảm cúm không thể lao động được. Anh được nằm nhà ăn cháo. Phải nói được ăn cháo là diễm phước, vì mọi người chỉ ăn khoai sắn, mặc dầu cháo nấu lỏng bằng gạo nhưng là điều rất hiếm hoi, chỉ có trong những dịp đặc biệt được trại cho phép. Buổi trưa đi cuốc đất về, anh Trọng ăn được hai phần cháo nhà bếp phát, còn lại một phần anh để dành cho tôi. Tôi thấy phần cháo một người ăn chưa đủ no, mà anh không ăn hết. Tôi khuyên anh cố gắng ăn hết mới mong lành bệnh. Anh nói anh ăn không nổi biết làm sao. Lúc đó anh nói với tôi còn vài ngày nữa mình sẽ được ăn bánh chưng, tôi mong mỏi từng ngày để được ăn bánh chưng vì thèm quá.
sinh mạng con người trong hoàn cảnh này quá rẻ, bọn bộ đội coi như là con vật không hơn kémNgày hôm sau anh hoàn toàn không ăn một chút cháo nào và sức khỏe kiệt quệ và hơi thở nặng nhọc. Nhưng anh vẫn thều thào nói ngày mai được phát bánh chưng rồi, để ngày mai ăn một bữa bánh chưng cho đã thèm. Chiều ngày hôm sau phát bánh chưng cho tù nhân nhưng anh Tr. đã xuôi tay trước khi được nhận chiếc bánh mà anh hằng ao ước. Ngày đó là ngày cuối tháng Chạp, và ngày hôm sau là ngày mùng một Tết năm 1977. Tôi không nhớ ngày 29 hoặc 30, vì tháng Chạp thiếu, ngày 29 tối mùng một Tết. Tôi nghĩ lại sinh mạng con người trong hoàn cảnh này quá rẻ, bọn bộ đội coi như là con vật không hơn kém, không mảy may nghĩ ngợi. Tôi nghĩ đến anh, rồi nghĩ đến số phận chính tôi và những người đồng cảnh không khỏi tuôn trào nước mắt. Thấm thía câu “mất nước là mất tất cả.”
Anh em cũng ráng lo ma chay cho anh, đem cái bánh chưng cúng và được thầy Bối, tuyên úy Phật Giáo, lo liệu. Thầy Bối đang cúng kiến thì bộ đội vào buồng bảo phải dẹp. Anh em đâu biết làm sao, đành quấn xác anh cùng đồ vật của anh bằng cái poncho, và khiêng ra vườn rau theo lời bọn bộ đội, sáng mai giải quyết.
Sáng hôm sau là ngày đầu năm, mọi người được nghỉ. Bộ đội xuống kêu gọi anh em tình nguyện đi chôn anh Trọng. Tôi là một trong năm người đó. Tôi nghĩ nên đi để nhớ được điều gì mai sau sẽ hướng dẫn người nhà đi tìm hài cốt. Trong tâm tư suy nghĩ như thế, nhưng thật sự không biết chính mình có ngày về, hoặc còn sống sót hay chăng. Anh Tr. đi ra Bắc coi như sáu tháng thì anh mãn phần, là người đầu tiên của trại chết, vì đi Bắc khoảng tháng 6 năm 76, sau khi ở trong Nam khoảng một năm.
Khoảng hơn năm sau, trại tù di chuyển khỏi Sơn La, xuôi Nam để tránh bài học trừng phạt của Trung cộng vào đầu năm 1979 thì không ai phải chết nữa. Anh là người độc nhất nằm lại tại Mường Cơi. Tôi nghĩ anh Tr. chết vì kiệt sức, đã đói mà hai ngày không ăn. Sau nầy có một trường hợp giống như thế ở trại Nam Hà, nhưng nhờ anh bạn tù mới nhận gói quà của gia đình nhường cho anh một ly sữa mà anh hồi tỉnh thoát chết.
Sự đời may rủi khó lường, âu cũng do Thượng Đế định đoạt. Mình còn hơi thở, nghĩ đến những điều ước ao của một người bạn không được toại nguyện sau khi nhắm mắt, ai nấy đều mủi lòng. Thật ra chết là hết, nhưng những người còn sống đau buồn cho số phận người quá cố, chứ đâu biết cái chết dễ dàng xảy ra cho bất cứ ai, trong hoàn cảnh khốn cùng này.
Vào khoảng cuối năm 1987, tôi được tha ra khỏi trại, điều không ngờ đã xảy ra. Được vòng tay thế giới mở rộng nhất là Hoa kỳ đón nhận, những người tù khốn khổ năm xưa lại được định cư tại một nước thứ ba tự do. Điều lạ lùng không ai tưởng nổi mà thực tế đã xảy ra. Thật là một may mắn nhiệm mầu mà Thượng Đế ân sủng. Trong khi đó thì chính người cùng huyết thống, màu da, cùng tiếng nói, cùng một quê hương, lại hành hạ và không khoan dung cho người cùng dân tộc với mình. Bắt đầu từ năm 1990, đa số những cựu tù CS lần lượt đượcđịnh cư ở những nước tự do theo chương trình nhân đạo, tránh nạn CS và đoàn tụ với gia đình với người đã vượt biên tìm tự do sau ngày CS chiếm miền Nam. Những ngày mới đến đang vật lộn với áo cơm cho chính mình và gia đình, mọi việc tạm gác qua. Nhưng sau khi ổn định phần cơm áo, một số người hợp tác tình nguyện đóng góp công và tài chính để lấy cốt những ai đã bỏ mạng trong thời gian tù CS mà thân nhân không đủ phương tiện tìm kiếm đem về quê hương cải táng.
Khoảng năm 2006, một hôm đọc được một bài trên "NET", kể lại anh Tr. đã được người hướng dẫn lấy cốt ở xã Mường Cơi, trong bài có hình ảnh, lòng tôi nhẹ nhõm thấy có người lo xong, mình khỏi phải bận tâm, người tình nguyện làm chuyện này là anh Th. ở Texas thì phải. Anh này cũng từng là tù nhân của CS, có một tấm lòng quảng đại đã hy sinh vì anh em nằm cô độc khắp rừng núi ở Bắc việt.
Nhưng khoảng mấy tháng sau, tôi được một người xưng là con rể của anh Tr., cháu Ch. liên lạc bằng điện thư cho hay bài viết đó không đúng. Thật ra anh Tr. chưa được cải táng, vẫn còn nằm ở Mường Cơi. Tôi có hỏi Ch. vì lý do sao có sự lầm lẫn, thì ra Ch. cũng là một thành phần trong toán của anh Th., tình nguyện gánh vác chuyện hồi hương những người chết trong các trại cải tạo của CS. Ch. kể lại đã về VN, đến Mường Cơi nhưng không tìm được hài cốt của ba anh. Cháu được những anh trại 2, liên trại 2 giới thiệu hỏi tôi xem được gì hơn không. Cháu muốn biết thêm tin tức để chuẩn bị cho chuyến thứ hai. Phần tôi vì có chú ý trước nên để tâm nhớ lại, chứ không tài gì hơn ai. Cháu có gởi tôi bản chụp hình lại khu vực anh em đã bị tù gần chân núi trước đó, và hỏi tôi nhớ lại xác định vị trí chỗ mai táng anh Tr.
Sau khi xem và nhớ lại, cảnh vật khác trước nhiều, vì chân núi người ta dùng mìn phá đá để bán. Tôi nhắc cháu Ch. anh Tr. chôn gần một mô đất, có cục đá to để ngăn chận cát từ núi chảy xuống khi mưa mà tạo thành núi cát. Đứng nhìn vào vách núi, cục đá to bên trái và mộ anh Tr. bên phải. Vì nơi đó đất cát dễ đào hố, từ đó khoảng 10 mét, bên phải mộ có bụi bương (loại tre lớn). Cháu Ch. có yêu cầu, nếu lần nầy không thành công, chú Tấn có thể đi với cháu lần sau không. Tôi nói với Ch., chú đi không có gì ích lợi hơn, những gì chú nói là chú nhớ được đã chỉ cho cháu rồi.
May thay, cháu Ch. đi về VN, rồi đi Mường Cơi sau đó khoảng nửa tháng, cháu gởi điện thư cho tôi nói cháu đã lấy được cốt ba cháu và di chuyển về cải táng ở quê Quảng Nam. Thâm tâm tôi mừng rỡ vô cùng, vì cuối cùng người bạn tù không còn cô đơn nơi đất lạ, một gánh nặng đè trên vai không còn nữa. Việc trọn vẹn, dự tính từ lâu, nay hoàn thành mỹ mãn. Những lời cháu Ch. kể lại, khu vực đó bây giờ giao cho một bộ đội giải ngũ (VC gọi là phục viên) canh tác. Chòi của anh ta ngay chỗ lò rèn của tù, gần suối nước và gốc cây gạo. Ông ta nói hằng đêm trăng sáng, một bóng người đi qua đi lại khu vực chòi ông và cây gạo, có vẻ buồn bã cho đến khi lấy cốt được mới hết. Trong ngày lấy cốt, tưởng rằng thất bại lần nữa, vì Ch. không tìm được tảng đá to, chỉ thấy bụi bương còn trơ gốc. Khoảng trưa có một người Mường đi ngang qua, những người phụ đào nói đó là một trong những người thợ bắn đá ở đây. Ch. bèn hỏi ông ta, ông ta chỉ vị trí tảng đá to và nói bị bắn để lấy đá bán. Ch. bèn lấy điểm từ tảng đá và đào bên trái. Tôi cũng có dặn không phải đào sâu vì nước chảy soi mòn và khi đào chôn cũng không đào sâu được vì đá cứng. Và đã đào đúng chỗ thấy xương chân lộ ra. Chị Tr. kể từ ngày anh chết, chị cầu nguyện cho anh hiện về trong giấc mơ, nhưng không được. Đêm đầu tiên sau ngày cải táng, chị mơ thấy anh vui vẻ, đi lại trong vườn có vẻ quen thuộc lắm.
Tôi muốn ghi lại hình ảnh điển hình của một tù nhân khốn khổ của chế độ CS, trả thù trên thân xác của Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa. Cảnh đói rách do bọn CS tạo nên không ai có thể tưởng tượng được, đã biến con người trở thành bản năng của loài vật, không hơn không kém. Ngày này qua ngày khác chỉ nghĩ đến cái ăn, không còn một chút lý trí của con người. Cái cảnh này chỉ cảm thấy được là khi đã trải qua, chứ nếu chỉ kể lại thì nhiều người đã cho là phóng đại. CS thường tàn ác quá sức tưởng tượng của con người, nhất là những người ở miền Nam sống trong tự do no ấm, vì thế không sống qua, họ sẽ không tin khi nghe kể lại.
Tôi muốn vinh danh những người đồng cảnh, sau khi được giải thoát khỏi chế độ CS, đã nghĩ đến những người bạn mình còn đang nằm rải rác nơi rừng sâu của miền đồi núi Bắc Việt. Họ đã hy sinh cả công lẫn của để trở về giúp đỡ những thân nhân đi tìm hài cốt người quá cố để mang về cố hương cải táng. Những hành động này đã cho bọn CS thấy được điều nhân bản của người Việt Nam trong xã hội tự do, khác xa sự dã man, tàn bạo của CS. Đặc biệt những người trẻ, không liên quan đến cuộc chiến cũng tham gia không tiếc cả công lẫn của.
Đến nay, sau cùng, những người nằm cô đơn rải rác ở đồi núi xa xôi, hẻo lánh miền Bắc, lần lượt cũng được đoàn tụ với gia đình, người thân. Điều nầy nói lên rằng dầu phải bị cực khổ, hành hạ của bọn CS lúc đầu, nhưng cuối cùng người lành cũng sẽ được ân sủng của Thượng Đế, người chết về lại với gia đình, người sống cũng qua khổ cực, được hưởng thanh nhàn lúc cuối đời.
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
(Kiều)
Trời kia đã bắt làm người có thân,
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
(Kiều)
Một câu chuyện thật mà tôi muốn viết lên để mọi người thấy được, dầu con người ác độc âm mưu giết chết toàn thể Quân Cán Chính của thời Việt Nam Cộng Hòa để trả thù, nhưng mưu sự tại nhân, thành sự do Thiên, cho nên không thành. Những người còn sống bây giờ được hưởng an nhàn tại các nước tự do, con cái thành đạt, âu cũng là số trời. Nhưng ngày 30/4/75 mãi mãi sẽ không thẻ nào quên được!
Mai Văn Tấn - K21