“Ta nghe đau sót trào trong mắt
Như thấy căm hờn lên tím môi
Sinh ra trong thời ly loạn...
Tuổi thanh xuân mà thiếu vắng nụ cười
Khi cờ máu cuả Cộng Nô xuất hiện
Biến Quê Hương ta thành bãi chiến trường."
-- Thùy Châu - Thành Tuy Hạ
Như thấy căm hờn lên tím môi
Sinh ra trong thời ly loạn...
Tuổi thanh xuân mà thiếu vắng nụ cười
Khi cờ máu cuả Cộng Nô xuất hiện
Biến Quê Hương ta thành bãi chiến trường."
-- Thùy Châu - Thành Tuy Hạ
Đôi lời phi lộ:
Trong bài này người viết đan cử một số ngôn từ như :
- Mảnh: chỉ về một TỜ giấy không có giá trị như TRANG giấy (mảnh giấy lộn).
- Uế sử: chỉ về những biến cố, xuyên tạc làm cho Chính Sử bị ô uế, bôi đen.
- Phịa sử hay Ngụy sử: viết về những sự kiện và biến cố không có THẬT.
- Ngụy tích: tất cả đảng viên CSVN đều mang tên GIẢ để ngụy tích (thay tên, đổi họ, tha phương cầu thực, không ai biết được tông tích cuả chúng, hầu giúp dễ dàng trà trộn trong dân để hoạt động và gây tội ác.
oOo
Nói đến Cộng Sản, chúng ta hình dung ra ngay biểu trưng của chủ thuyết của họ là chém giết, tù đày, dã man, tráo trở, bần cùng hoá người dân… để giành lấy và bảo vệ quyền sinh sát tuyệt đối như một đặc quyền.
Khi lá cờ máu xuất hiện trên Quê Hương thì nhóm chữ “nói dối như vẹm“ đã khởi đầu như một định mệnh trớ trêu, là một tục ngữ truyền tụng sâu rộng trong dân gian chỉ ít ngày sau khi giặc Cộng cướp chính quyền vào ngày 19 tháng 8 năm 1945.
Chẳng hạn, tên Trần Huy Liệu, gốc làng Tiên Hương, Vụ Bản, Nam Định (nơi hàng năm có hội chợ Phủ Dầy vào đầu tháng ba Âm lịch để nhớ về Công Đức Bà Chuá Liễu Hạnh) vốn là một tên du thủ, du thực, chuyên nghề đánh phèng la cho gánh xịêc sơn đông, mãi võ ở các chợ miền quê. Sau đó hắn theo CS và là Bộ Trưởng Tuyên Truyền đầu tiên do Phạm Văn Đồng là Thủ Tướng, trước khi chết đã thú nhận chính y là tác giả phịa ra truyện Kim Đồng tẩm xăng vào mình để đốt kho đạn của Pháp ở cuối Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (gần sân vận Động Hoa Lư) Sài Gòn. Hay cái tên ma Võ Thị Sáu (anh hùng dởm) được đặt tên cho một con đường nào đó ở thành Hồ. Hoặc Văn Tiến Dũng, tên thợ nhuộm rong, gốc làng Cổ Nhuế (dân sống về nghề đi hốt phân người, đổ thùng xí) gần Hà nôị, khoác lác (do văn nô viết dùm) trong hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân. Hay tên thiến heo rong Đỗ Mười gốc Hải Dương, sau này hắn cũng có thời là Thủ Tướng VGCS đi bái yết Tàu trong Mật Nghị Thành Đô.
Lật lại những “mảnh uế sử“ mà Việt Gian Cộng Phỉ (VGCP) tráo trở thành "ngụy sử" qua mốc thời gian sầu đau, chia cắt, tai hoạ, mà chúng đã dổi trắng, thay đen còn được gọi là “phịa sử“, khởi đi và như những dấu ấn khốn cùng đòi đoạn, đớn đau, khó có thể nhạt nhòa từ thuở thiếu thời cho đến khi về đất cuả thế hệ chúng ta, và cả con cháu sau này.
Ngày 19-8-1945:
Từ hang Pác Bó, chiến khu Tân Trào Việt Bắc, bọn VGCP luồn lách về Hà Nội, len lỏi vào cuôc biểu tình vĩ đại của dân chúng Thủ Đô do Công Chức, Học Sinh, Sinh viên là nòng cốt cuộc Tổng Khởi Nghĩa tổ chức. Chúng trà trộn và phất những lá cờ máu đầu tiên, đã giấu sẵn trong áo, như những phát súng khơi mào, để lừa bịp và dần dần cướp chính quyền trên toàn quốc.
Ngày 2-9-1945:
Hồ Chí Minh đang bệnh hoạn, ẩn trốn trong hang Pác Bó. Dân Thượng Du đã lan truyền nhau các câu đồng dao hỉ, nộ như sau :
Bác Hồ cùng với Bác Tôn (Tôn Đức Thắng)
Trốn trong Pác Bó ngắm … Minh Khai.
Bỗng dưng Hồ hỏi: Của ai?
Thắng vội vã đáp: Của hai đứa mình!
Hồ bèn nổi trận lôi đình
Đuổi Thắng ra khỏi, dành mình ... xài riêng.
Trốn trong Pác Bó ngắm … Minh Khai.
Bỗng dưng Hồ hỏi: Của ai?
Thắng vội vã đáp: Của hai đứa mình!
Hồ bèn nổi trận lôi đình
Đuổi Thắng ra khỏi, dành mình ... xài riêng.
Nhưng Hồ (giả mạo, xin đọc ghi chú đính kèm) được các nhân viên Tình Báo Mỹ (OSS tiền thân cuả CIA) hộ tống về Hà Nội để đọc Tuyên Ngôn Độc Lập giả hiệu, lừa bịp và tráo trở ở Vườn Hoa Ba Đình, với ý tứ sao chép nguyên ngữ bản Hiến Pháp của Hoa Kỳ, qua lộng ngôn hắn tuyên bố thành lập nước “Việt Nam Dân Chủ, Cộng Hoà“. Sau đó it ngày, "Hồ giả" thành lập cái gọi là Chính Phủ Liên Hiệp. Một số đảng viên Quốc Gia như Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần ... bị lừa vào Chính Phủ Liên Hiệp giả trá này.
(Ghi chú: Năm 2008, để phơi bầy cái “huyền thoại giả trá“ ấy, Đài Loan cho xuất bản cuốn sách “Tìm Hiểu Cuộc Đời Hồ Chí Minh” – HCM Bình Sinh Khảo – do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành, tác giả là Hồ Tuấn Hùng, giáo sư Sử Học từng giảng dạy trên 30 năm tại Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan. Theo công trình truy cứu thì HCM không phải là Nguyễn Ái Quốc (đánh cắp danh xưng chung này của các Cụ Phan Bội Châu và Nguyễn Thế Truyền, cùng thời lưu vong ở Pháp) hay Nguyễn Tất Thành gì cả, "Hồ thật" đã bị bệnh và chết vào năm 1932. (Vả lại, theo ông Ba Trực người làng Sen, Nghệ An, bạn nối khố chăn trâu, cắt cỏ thuở thiếu thời với "Hồ thật", tên tục là Nguyễn Sinh Cung, con của Nguyễn Sinh Sắc. Khi làm Tri Huyện, Sắc say rượu đánh chết một nông dân, y bị lột chức rồi trốn vào vùng Mộc Hóa, Cao Lãnh, làm nghề bốc thuốc nam.
Vì cần duy trì đảng CS Đông Dương nên Cộng Sản Tàu sau này đã chọn một Sĩ Quan Tình Báo là Hồ Quang cuả Cục Tình Báo Hoa Nam đóng giả vai Hồ Chí Minh.)
Hồ Quang tức HCM GIẢ cũng đã chết ngày 2-9-1969, bọn VGCP vẫn tiếp tục đánh lừa người dân VN, thần thánh hoá và xây cho y một lăng mộ đồ sộ ở Hà Nội.
Ngày 21-12-1945:
Trong khi dân tình còn hoang loạn, nhưng lợi dụng dịp này, bọn VGCP đã hạ quyết tâm thẳng tay truy diệt Cán Bộ thuộc các Đảng Phái Quốc Gia, với cuộc dàn dựng qui mô để sát hại, truy quét bùng phát, điển hình là ở phố Ôn Như Hầu, Hà Nội, cùng nhiều tỉnh thành khác trong toàn quốc, do chính Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn điều hoạch, khiến ở ngoài Bắc cán bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng phải chạy lên Vĩnh, Phúc Yên, hay cán bộ Đại Việt Cách Mạng Đảng phải chạy xuống vùng Bùi Chu, Phát Diệm. Trong Nam, các đảng phái và tôn giáo như Cao Đài, Hoà Hảo … cũng bị truy bức khốn cùng, và đức Huỳnh Phú Sổ bị sát hại là một trong vô vàn bằng chứng dã man, tàn độc này.
Ngày 6-3-1946 và ngày 14-9-1946:
Sau Thế Chiến Thứ Hai, quân Anh, Ấn đến giải giới quân Nhật ở Miền Nam, đã che chở để quân Pháp trở lại miền Nam. Trong khi Hồ "giả" và đồng bọn cần thời gian để củng cố quyền lực, nên bọn VGCP một mặt câu giờ, bèn tổ chức "Tuần Lễ Vàng", lừa bịp để vơ vét hết trang sức, quí kim, cuả cải của người dân dưới danh nghĩa yểm trợ Miền Nam hay xung vào ngân khố Quốc Gia. Nhưng thật sự là nhét vào hầu bao của chúng và hối lộ Lư Hán (Tướng Tàu) có nhiệm vụ giải giới quân Nhật tại Miền Bắc, ngõ hầu Lư Hán làm ngơ cho VGCP thẳng tay tiêu diệt Cán Bộ các Đảng Phái Quốc Gia.
Song song với chiến dịch này, Hồ "giả" đã tráo trở thêm, để cứu khốn và thoát hiểm trong thế chẳng đăng đừng, nên phải sang Pháp cúi đầu ký Tạm Ước và Hiệp Định Sơ Bộ vào hai ngày nêu trên, qua trung gian của tên Pháp Cộng là Sainteny, đã mời Pháp trở lại Miền Bắc, đặc biệt là ba thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định.
Ngày 19-12-1946:
Với hai văn kiện ô nhục này, Hồ đã "Rước voi về dầy (lại) mả tổ", khiến toàn dân căm phẫn, và các Đảng Phái Quốc Gia sống còn quyết liệt phản đối.
Với khí thế ngút ngàn của quần chúng, bọn VGCP cuối cùng và miễn cưỡng lên tiếng ăn theo: Toàn Quốc Kháng Chiến.
Ngay đêm đó chiến sự đã bùng phát ác liệt, Tự Vệ Thành, Sinh Viên, Học Sinh, Công Tư Chức cùng dân chúng của ba thành phố lớn miền Bắc đã chiến đấu vô cùng dũng cảm với quân Pháp, nên bị giết hại rất nhiều, còn bọn VGCP thì đã cao chạy, xa bay. Lũ chuột ĐỎ chạy trốn lên Việt Bắc thoát thân từ đêm trước.
Để bần cùng hóa người dân và tiện tay hủy diệt tôn giáo, VGCP lợi dụng đưa ngay ra chủ trương "Tiêu thổ kháng chiến". Một phát đạn bắn hai con chim, để quân Pháp tiêu diệt nguời Việt Quốc Gia (chúng gán cho là Việt Gian) nhất là ở các đô thị và trên toàn quốc. Còn ở các vùng quê tất cả Miếu Mạo, Đình, Chùa, Nhà Thờ, Lăng Tẩm... đều bị triệt hạ, san bằng qua âm mưu thâm độc trên, nhất là cần tiêu diệt Tôn Giáo (tuyên truyền láo khoét là các cơ sở thờ phượng này sẽ bị quân Pháp chiếm làm đồn bót hay căn cứ quân sự).
Đầu Xuân năm 1952 đến Hè năm 1956:
Chiến dịch qua mỹ từ "Cải Cách Ruộng Đất" (tố khổ truy diệt: Trí, Phú Địa, Hào, phải đào tận gốc, trốc tận rễ, y hệt như Tàu Cộng đã áp dụng). Gần năm năm đòi đoạn, dưới sự điều khiển của cố vấn Tàu là Lã Quí Ba, Trần Canh và Vi Quốc Thanh. Chiến dịch tàn độc này như cơn địa chấn kinh hoàng đối với nhân dân Miền Bắc: con tố cha, vơ tố chồng, anh em tố cáo nhau, thân nhân coi nhau như thù địch. Rồi các Toà Án Nhân Dân mọc lên như nấm khắp hang cùng ngõ hẻm, kêu gọi bạo lực, cấy căm thù xẩy ra khắp chốn:
“Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngơi nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt!“
(trích thơ cuả văn nô Tố Hữu)
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt!“
(trích thơ cuả văn nô Tố Hữu)
Hơn một triệu rưỡi người bị kết tội là giai cấp Trí, Phú, Đia, Hào và thân quyến bị tố khổ dã man, tù đầy cho đến chết, buông sông, cắt cổ hay chôn sống. Chính Trường Chinh Đặng Xuân Khu đã tố khổ cha mình là Đặng Xuân Viện ngay tại sinh quán là làng Hành Thiện, Bùi Chu. Bà Nguyễn Thị Năm, chủ hai tiệm tơ lụa lớn ở phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hà Nội, và đồn điền trà ở Thái Nguyên, có 2 con trai là Sĩ Quan trung cấp trong Vệ Quốc Đoàn, gia đình bà đã từng dấu chứa bọn đầu não VGCP trước năm 1945, ủng hộ gần hết gia sản, của cải trong Tuần Lễ Vàng…. nhưng bà ta cũng bị đem ra đấu tố và cuối cùng bị xử tử (cuốn phim Chúng Tôi Muốn Sống cuả VNCH chúng ta chỉ mới phản ảnh phần nào muôn ngàn tội ác cuả giặc trong thời gian dài đẫm máu nêu trên). Số người bị giết có thể cao hơn nhiều, khó kiểm chứng, gấp bội nạn đói năm Ất Dậu, 1945.
Không phải đợi đến thời điểm nêu trên chúng ta mới thấy bọn VGCP trở nên chư hầu cho giặc Hán, mà đảng trưởng CSVN là Hồ Chí Minh đã bị cấy Sinh Tử Phù Cộng sản khá lâu trước năm 1926 khi y gia nhập Đảng CS Tàu. Đến năm 1930 Hồ thành lập đảng CSVN, cam kết thuần phục Tàu Cộng, rồi y cũng chết bệnh ở Tàu vào năm 1932.
Thế rồi sau khi CS Tàu cưỡng chiếm Hoa Lục vào tháng 10 năm 1949 thì ngay sau đó Hồ "giả" và lâu la vội vàng sang bái yết Mao để tỏ nghiã cử cúc cung thuần phục, chư hầu, để xin quân viện.
Mao chỉ chờ có thế, con mồi có sẵn, nên Mao cử ngay Lã Quí Ba làm Đặc Mệnh Toàn Quyền, Trần Canh và Vi Quốc Thanh làm Cố Vấn Quân Sự cho VGCP. Thời gian ngắn sau đó, VGCP được phép đem 2 Đại Đoàn (Sư Đoàn) 304 và 308 do Văn Tiến Dũng và Hoàng Văn Thái là Tư Lệnh, qua biên giới Việt-Hoa để huấn luyện 2 tuần, trang bị quân khí do Tàu Cộng lấy được từ quân Quốc Dân Đảng vùng Hoa Nam.
Nhờ được Tàu Cộng trang bị, nên sau khi về nước, hai Sư Đoàn này được Cố Vấn của Tàu (đến cấp Trung Đội), mở Chiến Dịch Đông Xuân 1952 - 1953 tại vùng Cao Bắc Lạng (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) đánh tập kích hai Binh Đoàn Lưu Động của Pháp ở khu vực đồi núi Đông Khê, Thất Khê đang rút về châu thổ Sông Hồng, chỉ huy bởi hai Đại Tá là Le Page và Charton. Trận này do được Tàu trang bị vũ khí và cố vấn Tàu chỉ huy, khiến quân Pháp bị thiệt hại nặng. Và cuối cùng đến ngày 7-5-1954, quân Pháp bị mất Điện Biên Phủ cũng trong bối cảnh và diễn tiến chiến trường gần như tương tự. Cũng kể từ đây, VGCP hoàn toàn bị vòi con bạch tuộc Tàu Cộng xiết buộc không đường cọ quậy, làm thân tôi tớ, chủ bảo sao đều phải tuân phục, như thân phận con ngựa thồ bị khoá hàm thiếc (chỉ được nói những lời mà Tàu Cộng cho phép và hai mắt bị che chỉ thấy một chiều là con đường mà chú nài Tàu Cộng dùng roi quất bắt tuân theo.)
Ngày 20-7-1954 Hiệp Định Đình Chiến Geneva - chia đôi đất nước:
Ngay sau khi tiếp thu từ những tỉnh thị và các vùng của Người Việt Quốc Gia, Hồ "giả" và bè lũ đã hạ quyết tâm đầy thâm độc, vô cùng tàn bạo, lập tức đổi vùng cư trú, đuổi dân đồng bằng và đô thị lên mạn ngược đầy lam sơn chướng khí, đánh Tư Sản Mại Bản, áp dụng tem phiếu thực phẩm và nhu yếu phẩm… và chúng cũng đã áp đặt quỉ kế này qua mỹ từ là "Vùng Kinh Tế Mới" ngay sau khi cưỡng chiếm Miền Nam (gọi là Thời Bao Cấp):
"Mỗi năm thước rưỡi vải thô,
Đóng khố không đủ... Bác Hồ lòi ra.
Cầu Trời, Đất nổi can qua,
Toàn dân vùng dậy lột da Bác Hồ.”
Đóng khố không đủ... Bác Hồ lòi ra.
Cầu Trời, Đất nổi can qua,
Toàn dân vùng dậy lột da Bác Hồ.”
Ca dao hay tục ngữ truyền tụng trong dân gian để phản ảnh cảnh khốn cùng và bi phẫn ấy, vì “Trăm năm bia đá thì mòn. Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
Tại Geneva, phái đoàn Tàu Cộng do Chu Ân Lai cầm đầu, kiểm soát chặt chẽ đoàn VGCP do Phạm Văn Đồng thụ uỷ. Tàu Cộng và VGCP cố đòi chia cắt đất nước ở Vĩ Tuyến 15, nhưng bị Mỹ, Pháp và đại diện Chính Phủ QGVN là Thủ Tướng Bửu Lộc và Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ phản đối quyết liệt, nên cò kè vào phút chót, VN ta bị chia đôi ở Vĩ Tuyến 17, với lằn ranh Quốc - Cộng là sông Bến Hải phân định hai Miền Nam Bắc, phái đoàn cuả Chính Phủ Quốc Gia VN không ký vào văn kiện chia cắt này. Cho nên mới có cuộc di cư vĩ đại, chối bỏ VGCP của hơn một triệu người miền Bắc vào Nam tìm Tự Do, và sau đó đặc biệt có thêm dân vùng Ba Làng, Quỳnh Lưu, Nghệ An (còn được gọi là Phong trào Quỳnh Lưu khởi nghiã) đồng loạt vùng lên đòi di cư vào Nam. VGCP phải điều động cả Sư Đoàn quân chính qui đến truy diệt. Các biến cố nêu trên có thể quí đôc giả đã rõ nên người viết xin miễn đề cập thêm.
Ngày 14-9-1958: Công Hàm dâng Biển, Đảo cho Tàu Cộng.
Ngay sau khi Chu Ân Lai, Tổng Lý Quân Vụ Viện, ký bản Tuyên Bố ngày 4-9-1958, quyết định về hải phận của Tàu ở Biển Đông (trong đó có bốn đảo kể cả Trường Sa và Hoàng Sa của VN), thì chỉ 10 ngày sau đó là ngày 14-9 Hồ "giả" và bọn VGCP đã chỉ thị cho Phạm Văn Đồng ký Công Hàm để ghi nhận và tán thành bản Tuyên Bố này. Trong nguyên văn Công Hàm còn nhấn mạnh: “Chính phủ VNDCCH TÔN TRỌNG QUYẾT ĐỊNH ẤY và CHỈ THỊ CHO CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CÓ TRÁCH NHIỆM TRIỆT ĐỂ TÔN TRỌNG.“
Ngày 20-12-1960 vâng lệnh Tàu Cộng: thành lập nhóm bù nhìn là Mặt Trận Giải Phóng Mìền Nam.
Bọn VGCP ngay sau Hiệp Định Geneva đã cho các Cán Binh Hồi Kết phối hợp với các phần tử nằm vùng do Lê Duẩn tức Lê văn Nhuận (trốn ở lại miền Nam ) lãnh đao, bắt đầu nổi lên quấy phá, đe dọa, ám sát, bắt cóc, thủ tiêu người dân không theo chúng ở những vùng thôn quê hẻo lánh. Công cụ này do Bắc Bộ Phủ điều khiển toàn bộ. Nhưng sau khi đã xích hoá và lá cờ máu phủ chụp lên Miền Nam ngày 30-4-1975, thì ngày tận số cuả MẶT TRẬN BÙ NHÌN và HỮU DANH, VÔ THỰC ấy đã bị VGCP “khai tử“ không thương tiếc vào ngày 31-1-1977.
Mùa Xuân Mậu Thân năm 1968.
Không còn che dấu mộng xích hóa Miền Nam, với quân khí được cả khối Cộng Sản Quốc Tế viện trợ dồi dào, cố vấn Tàu tới cấp Trung Đội, lính phòng không với hỏa tiễn cuả Nga do Nga đảm nhiệm, nên VGCP phối hơp với bọn tay sai trong Mặt trận bù nhìn, bội ước lệnh hưu chiến để người dân Miền Nam vui Tết, đón Xuân, chúng mở màn chiến dịch gọi là “Tổng Công Kích - Tổng Nội Dậy“, nhưng bị thất bại thê thảm, dù đã lùa và nướng hàng vạn quân. Trước khi trốn chạy về rừng, chúng đã thẳng tay tàn sát dã man (trói thúc ké bằng kẽm gai, đập đầu bằng báng súng, chôn sống tập thể…) mấy chục ngàn dân vô tội, mà vụ tàn sát tại Cố Đô Huế là chứng tích man rợ trời không tha, đất không dung. Chúng đã hành động điên khùng và cuồng bạo trong chiến dịch này.
Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972
VGCP chưa nguôi căm hận đại bại năm Mậu Thân. Sau hơn 3 năm hồi lực, chúng lại dốc toàn lực, vơ vét lùa thêm 30 ngàn quân qua vĩ tuyến 17, vượt Trường sơn, xâm nhập từ Miên, Lào để mở các trận mới với xe tăng, trọng pháo, hoả tiễn … vào ba nơi: Quảng Trị, Kontum và An Lộc. Nhưng trong cả ba trận này, dù biển người thí quân vô tội vạ thanh thiếu niên miền Bắc, chúng đều bị QLVNCH đẩy lui và truy diệt. Các viên tướng chỉ huy chiến dịch của giặc trong ba mặt trận này là Chu Huy Mân, Hoàng Cầm, Lê Trọng Tấn, Lê Khả Phiêu, Đồng Sĩ Nguyên, Vũ Lăng... khó có thể quên, ôm hận đến cuối đời với thành tích man rợ cuả chúng. Mức độ kinh hoàng đưa đến thảm bại, khi phải hồi tưởng đến Cổ Thành tan nát với cán binh bị xiềng chân gục xác trên càng súng đại liên, vô vàn người dân (nhất là đàn bà và trẻ em) bị tàn sát ở đại lộ Kinh Hoàng vì trọng pháo cuả giặc. Xác các xe tăng T-54 của chúng bị quân ta bắn cháy nằm ngổn ngang khắp An Lộc điêu tàn, trên các đường phố và Cổ Thành Quảng Trị tan hoang. Những chứng tích tang thuơng và cuồng nộ ấy khó có thể nhạt nhoà trong lòng quân, dân Bình Long, Quảng Trị, Kontum, và toàn dân Miền Nam cho đến muôn đời.
Hiệp Định Ngưng Bắn và Tái Lập Hoà Bình ở VN ký tại Ba Lê ngày 27-1-1973.
Hiệp Định này gồm 9 Chương với 23 Điều, nhưng quan trọng nhất là các Điều 5, 9 và 11 như sau:
- Điều 5: TRONG VÒNG 60 NGÀY CÁC LỰC LƯỢNG NGOẠI NHẬP PHẢI RÚT HẾT KHỎI MIỀN NAM VIỆT NAM.
- Điều 9: NGƯỜI DÂN MIỀN NAM VIỆT NAM TỰ QUYẾT TRONG VIỆC BẦU CỬ CHÍNH QUYỀN THEO THỂ THỨC TỰ DO, DÂN CHỦ.
- Điều 11: HÒA GIẢI DÂN TỘC, XÓA BỎ HẬN THÙ. CẤM MỌI HÀNH ĐỘNG TRẢ THÙ. TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO TÔN GIÁO, TỰ DO CƯ TRÚ.
Chính Bọn VGCP đã ký kết, nhưng chúng được Nga Xô, Tàu Cộng và cả khối CS Quốc Tế viện trợ ồ ạt nhân vật lực (quân nhu, vũ khí) để xé bỏ Hiệp Định này, quyết tâm trắng trợn, công khai xâm lược Miền Nam, coi như không có Hiệp Định Ngưng Bắn và Tái Lập Hoà Bình ở VN, kể cả không đếm xỉa tới cả văn kiện Định Ước Quốc Tế Bảo Đảm Thực Thi Hiệp Định Ba Lê được ký ngày 2-3-1973 do Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc chủ tọa và 12 nước Trọng Tài cùng ký kết gồm: Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Mỹ, Hung Gia Lợi, Ba Lan, Nam Dương, VNCH, Liên Xô, Trung Cộng, CSBV và MT/GPMN.
Bọn VGCP cũng không tiếc thương gì với trên 2 triệu thưòng dân vô tội của 2 miền Nam Bắc đã uổng tử trong cuộc chiến tranh xâm lăng này.
Chúng đã ném vào lò lửa chiến tranh xâm lăng 444,000 thanh, thiếu niên miền Bắc và khiến 282,000 quân nhân QL/VNCH đã hy sinh để bảo vệ Tự Do.
Ngày 30-4-1975:
Là ngày tang tóc, đau thương mà bọn VGCP đã phủ chụp lá cờ máu xuống Miền Nam. Bọn VGCP đã quỉ quyệt, vô cùng tàn bạo, quyết đảo ngược và phủ nhận Hiệp Định, nhất là các Điều 5, 9, 11 cuả Hiệp Định đã qui định.
Kể từ đó, ngày 30 thánh 4 trở thành Ngày Quốc Hận cuả Quân Dân Miền Nam VN:
- Trên 964,000 Quân, Cán, Chính cuả VNCH bị VGCP bắt tù đày ở những nơi rừng thiêng, nưóc độc trên toàn quốc, khiến trên 168,500 người bỏ xác trong tù ngục vì đói rét, bệnh tật, không thuốc men, bị cưỡng bách lao tác đến kiệt sức và bị đối xử như súc vật (tù đày không bản án)… VGCP chính là bọn Tội Nhân Chiến Tranh, tội diệt chủng phải bị công luận thế giới lên án và Toá Án Quốc Tế truy tố.
- Đẩy dân đô thị đi các Vùng Kinh Tế Mới và đổi vùng cư trú ở nông thôn, mà chúng cho là có thể tạo hậu hoạ cho chế độ man rợ này (nhất là các vùng gồm dân chúng theo đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954.)
- Trên 656,000 thường dân vô tội đã chết thảm trên biển, trên các nẻo đường qua biên giới Miên, Lào để đi tìm Tự Do. Số nạn nhân tử vong có thể còn cao hơn nhiều vì khó kiểm chứng.
- Trong 2 năm đầu, bọn VGCP đã hạ quyết tâm bần cùng hoá người dân Miền Nam xuống ngang hàng tôi đòi, nô lệ như người dân khốn khổ Miền Bắc sau khi Hồ "giả" và đồng bọn tiếp thu năm 1954 từ phiá bắc Vĩ Tuyến 17, nên chế độ tem phiếu (bo bo và thực phẩm) đã triệt để áp đặt, vơ vét hết của cải cuả người dân miền Nam bằng 2 lần đánh Tư Sản Mại Bản, 3 lần đổi tiền Hồ, cùng nhiều chính sách tàn bạo khác. Nên đã có nhiều ca dao, tục ngữ, đồng dao... lan tràn khắp nơi, như những phản ứng tích cực cuả ngưòi dân rất trung thực, ngôn ngữ thật chân quê nhưng xúc tích:
“Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ,
Nón tai bèo che khuất cả tương lai.“ - Bóp nghẹt mọi sinh hoạt Tôn Gíáo qua Tôn Giáo Quốc Doanh (chia để trị).
- Kiểm soát gắt gao di chuyển và cư trú, biến miền Nam trở thành Nhà Tù vĩ đại.
- Kiểm soát mọi Tự Do Ngôn Luận và cấm tụ tập.
- Bằng sách lược Công An Trị: mọi phản kháng chính đáng, dù ôn hòa dưới bất cứ hình thức nào của người dân cũng bị qui kết là phản động, chống Nhà Nước, đều bị bắt bớ, tra tấn dã man và tù đày.
- Còn vô vàn mưu ma, chưóc quỉ tệ mạt khác không sao kể xiết (tham nhũng, đồi trụy, lao nô, xã hội băng hoại, đạo đức truyền thống tan hoang...) mà toàn dân phải hứng chịu.
- Mật Nghị Thành Đô ngày 4-9-1990: Tái lập bang giao và bình thường hoá.
Mật Nghị BÁN NƯỚC được ký kết tại khách sạn Kim Mưu, Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Phía Tàu Cộng là Giang Trạch Dân và Lý Bằng, còn ph ía VGCP do Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh tức Mười Cúc, Thủ Tướng Đỗ Mười, cố vấn Phạm Văn Đồng.
Dù bị bưng bít, nhưng mọi che dấu cũng dần dần hé lộ: VGCP đã phải cam kết hiến đất, biển, đảo cho Tàu:
- Thác Bản Giốc và các cột mốc suốt dọc biên giới cũ không còn nữa, thay bằng các cột mốc mới lùi xa về phía nội điạ VN trên 15 cây số.
- Các đảo Trường Sa và Hoàng Sa đã lọt vào tay Trung Cộng (TC).
- Hải Phòng là điểm Trung Chuyển cuả con đường Tơ Lụa mới, cả trên biển và trên bộ.
- Bốn Đặc Khu Kinh Tế đã có là: Vũng Áng, Bô-xít Cao Nguyên, Formosa và Bình Dương cùng nhiều điạ điểm chiến lược khác trên toàn quốc đã bị TC độc chiếm, còn Vân Đồn, Văn Phong, Phú Quốc cũng trở thành Đặc Khu Kinh Tế trong thời gian qua.
Sau cái Mật Nghị ô nhục này, khi về nước, Phạm Văn Đồng đã than thở: “Đi họp mà ta phải tuân phục và không lường trước được hậu quả.” Còn Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc thì há miệng mắc quai nói: “Dựa vào Trung Quốc sẽ mất Nước, nhưng còn hơn mất Đảng.”
Ôi, ô nhục thay bọn VGCP!!!!!!
Số phận Việt Nam bắt đầu vào năm 2020 cũng sẽ như Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng... Hoạ mất nưóc đã và đang gần kề. Chiếc đinh cuối cùng của rợ Hán sẽ đóng sập quan tài Mẹ Việt Nam: Bắc thuộc trong thế kỷ 21. Với chính sách tầm ăn dâu, kể từ ngày ký năm 1990, TC đã “gặm nhấm” VN qua các dạng thức nêu trên.
Thời kỳ 60 năm sắp tới sẽ công khai, hoàn toàn xích hóa qua 3 giai đoạn, dưới các danh xưng mới:
- Giai đoạn 1: từ ngày 5-7-2020 là Quốc Gia Tự Trị.
- Giai đoạn 2: từ ngày 5 -7-2040 là Quốc Gia Thuộc Trị.
- Giai Đoạn 3: từ ngày 5 -7-2060 là Tỉnh Lỵ Âu Lạc.
Thưa Quý Huynh Đệ và Quý Độc Giả, bản tóm lược này có thể còn thiếu sót, kính mong được bổ chính và đóng góp thêm cho hoàn hảo.
Xin chân thành Đa Tạ.
Thùy Châu - Thành Tuy Hạ