Cuộc Đổ Bộ Ở Bãi Biển Normandy - Đa Hiệu Online

Thursday, June 6, 2019

Cuộc Đổ Bộ Ở Bãi Biển Normandy


Bùi Phạm Thành, K25
Biên soạn theo bài Normandy Landings

Cuộc đổ bộ ở bãi biển Normandy, Pháp, là cuộc tấn công của Đồng Minh vào thứ Ba, ngày 6 tháng 6 năm 1944, trong một chiến dịch có tên là Chiến Dịch Overlord (Operation Overlord) trong Thế Chiến Thứ Hai. Chiến Dịch Neptune (Operation Neptune), thường được biết đến là Ngày-D (D-Day), là cuộc tấn công bằng đường biển lớn nhất trong lịch sử chiến tranh. Chiến dịch này mở đầu cho cuộc giải phóng nước Pháp (và sau đó là cả châu Âu) khỏi sự chiếm đóng và kiểm soát của Đức Quốc Xã, đồng thời đặt nền móng cho chiến thắng của quân Đồng Minh trên Mặt Trận Phía Tây - Western Front.

Thống Tướng Erwin Rommel
biệt danh "Cáo Sa Mạc - Desert Fox" 
Kế hoạch cho chiến dịch đã được chuẩn bị từ năm 1943. Trong những tháng trước khi thực hành cuộc đổ bộ, quân Đồng Minh đã tiến hành một cuộc đánh lừa quân sự đáng kể, có tên là Chiến Dịch Bodyguard (Operation Bodyguard), để đánh lạc hướng quân Đức về ngày và địa điểm của cuộc đổ bộ của quân Đồng Minh.

Thời tiết trong Ngày-D, đã được chọn lựa, không thuận lợi nên chiến dịch bị trì hoãn 24 giờ; nhưng nếu phải trì hoãn thêm nữa thì có nghĩa là phải dời lại ít nhất là hai tuần vì các nhà hoạch định chiến dịch phải dựa vào chu trình của mặt trăng, thủy triều và thời gian trong ngày, và chỉ có vài ngày trong mỗi tháng được coi là phù hợp cho việc tấn công bằng đường biển.

Với dự đoán về một cuộc tấn công của quân Đồng Minh, Adolf Hitler đã cử Thống Tướng Erwin Rommel chỉ huy lực lượng Đức và xây dựng các công sự phòng thủ dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, được gọi là "Bức Tường Đại Tây Dương - Atlantic Wall".

Bản đồ 5 bãi biển Utah, Omaha, Gold, Juno và Sword Trong Ngày D
Cuộc đổ bộ được tiến hành bằng các cuộc oanh tạc bởi không quân và hải quân trên một bình diện rộng lớn và tiếp theo là một cuộc tấn công từ trên không của 24,000 lính nhảy dù vào ngay trong lòng địch của Mỹ, Anh và Canada ngay sau nửa đêm. Bộ binh Đồng Minh và các sư đoàn thiết giáp bắt đầu đổ bộ vào bờ biển Pháp lúc 06:30 sáng. Mục tiêu trải dài 50 dặm (80 km) dọc bờ biển Normandy được chia thành năm khu vực: Utah, Omaha, Gold, Juno và Sword. Những cơn gió mạnh đã thổi các tàu đổ bộ về phía đông của các vị trí dự định, đặc biệt là tại Utah và Omaha. Binh sĩ Đồng Minh đổ bộ đã bị áp lực dưới hỏa lực mạnh từ các ụ súng phòng thủ đặt ở trên cao hướng ra bãi biển, đồng thời bờ biển đã bị gài mìn và phủ đầy chướng ngại vật như cọc gỗ, giá ba chân bằng kim loại và dây thép gai, khiến công việc của các đội dọn bãi đổ bộ trở nên khó khăn và nguy hiểm. Thương vong nặng nhất là tại bãi Omaha, vì có những vách đá cao. Tại Gold, Juno và Sword, một số thị trấn được quân Đức phòng bị kiên cố đã bị dẹp tan trong các cuộc giao tranh qua từng căn nhà, và hai ụ súng lớn tại Gold đã bị vô hiệu hóa bởi loại xe tăng đặc biệt của quân đội Đồng Minh.

Quân Đồng Minh đã không đạt được một mục tiêu nào trong ngày đầu tiên. Carentan, St. Lô và Bayeux vẫn nằm trong tay Đức, và Caen, một mục tiêu chính, đã không chiếm được cho mãi đến ngày 21 tháng 7. Chỉ có hai trong số các đơn vị đổ bộ ở bãi biển Juno và Gold là bắt tay được nhau trong ngày đầu tiên và tất cả năm bãi biển không bắt tay được nhau cho mãi đến ngày 12 tháng 6; tuy nhiên, chiến dịch đã đạt được điểm đứng để quân Đồng Minh làm bàn đạp dần dần mở rộng phạm vi kiểm soát trong những tháng tới. Thương vong của quân Đức trong Ngày-D ước tính khoảng 4,000 đến 9,000. Trong khi đó, số thương vong của Đồng Minh ít nhất là 10,000, với 4,414 người được xác nhận là đã chết.

Dưới đây là sơ lược các trận chiến trên 5 bãi biển Utah, Omaha, Gold, Juno và Sword.

Xe Tăng

Một số tàu đổ bộ đã được sửa đổi để cung cấp hỏa lực yểm trợ gần và xe tăng lội nước tự hành (self-propelled amphibious Duplex-Drive tanks, gọi tắt là xe tăng DD), được chế tạo đặc biệt cho cuộc đổ bộ Normandy, được dự tính là sẽ đổ bộ xuống bãi biển trước để cung cấp hỏa lực yểm trợ cho bộ binh đến sau. Tuy nhiên, rất ít xe tăng đến trước bộ binh và nhiều chiếc đã bị chìm trước khi vào đến bờ, đặc biệt là tại bãi biển Omaha.

Bãi biển Utah

Binh sĩ Hoa Kỳ đổ bộ lên bãi Utah
Bãi biển Utah nằm trong khu vực được bảo vệ bởi hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 919 Grenadier Bảo Vệ Duyên Hải của Đức. Các binh sĩ của Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ là những người đầu tiên đổ bộ vào lúc 06:30. Tàu đổ bộ của họ bị đẩy về phía nam bởi dòng nước chảy mạnh và họ dạt vào khu bãi biển cách nơi dự định khoảng 2,000 yard (1.8 km). Địa điểm này hóa ra tốt hơn, vì chỉ có một ổ phòng thủ mạnh gần đó chứ không phải là hai, và đã bị máy bay ném bom của Bộ Tư Lệnh Oanh Tạc Cơ IX gây thiệt hại đáng kể. Ngoài ra, dòng nước mạnh đã đẩy dạt vào bờ nhiều chướng ngại vật đã được quân Đức đặt ngầm dưới nước. Tư Lệnh Phó của Sư Đoàn 4 Bộ Binh, Chuẩn tướng Theodore Roosevelt, Jr. (con trai của vị tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ), sĩ quan cao cấp đầu tiên của Hoa Kỳ đặt chân lên bờ, đã đưa ra quyết định "bắt đầu cuộc chiến từ ngay tại đây", và ra lệnh tiếp tục đổ bộ lên địa điểm này.

Ngay tiếp theo sau các tiểu đoàn tấn công đã lên bờ là 28 xe tăng DD và một các đội công binh và chuyên viên phá hủy để phá bỏ các chướng ngại vật trên bãi biển và dọn sạch chướng ngại vật và mìn ở khu vực ngay phía sau bãi biển. Các vách đá ở bãi biển đã được dọn sạch để bộ binh và xe tăng có thể tiến vào nhanh hơn. Các đội chiến đấu bắt đầu rời khỏi bãi biển vào khoảng 09:00, với một số bộ binh lội qua những cánh đồng ngập nước thay vì đi trên cùng một con đường. Họ đụng độ suốt ngày với các đơn vị của Trung Đoàn 919 Grenadier của Đức được trang bị súng chống xe tăng và súng trường. Các điểm phòng thủ mạnh trong khu vực và trong khoảng 1,300 yard (1.2 km) về phía nam đã bị vô hiệu hóa vào buổi trưa. Sư Đoàn 4 Bộ Binh đã không đạt được tất cả các mục tiêu trong ngày D của họ tại bãi biển Utah, một phần vì họ đã đến quá xa về phía nam, nhưng họ đã đổ bộ được 21,000 binh sĩ mà chỉ có 197 thương vong.

Trận Pointe Du Hoc

Biệt Động Quân Hoa Kỳ
đang leo lên đồi ở Pointe du Hoc
Pointe du Hoc, một vùng đất cao nằm giữa Utah và Omaha, được giao cho hai trăm binh sĩ thuộc Tiểu Đoàn 2 Biệt Động Quân Hoa Kỳ do Trung tá James Rudder chỉ huy. Nhiệm vụ của họ là leo lên các vách đá cao 30m (100ft) bằng móc, dây thừng và thang để phá hủy các ụ súng chĩa vào bãi biển nằm trên đỉnh đồi. Các ụ súng này được bảo vệ bởi Sư Đoàn 352 Bộ Binh của Đức và các cộng tác viên Pháp bắn từ trên cao xuống. Các khu trục hạm của Đồng Minh là Satterlee và Talybont yểm trợ hỏa lực từ ngoài khơi. Sau khi leo lên các vách đá, Biệt Đội phát hiện ra rằng súng đã được dời đi nơi khác. Họ tìm được vũ khí, không được bảo vệ nhưng sẵn sàng sử dụng, trong một vườn cây cách đó 550 mét (600 yd) về phía nam và phá hủy chúng bằng chất nổ.

Lúc này Biệt Đội bị cô lập và đã chống lại nhiều cuộc phản công từ Trung Đoàn 914 Grenadier của Đức, một số đã bị bắt. Đến rạng sáng ngày D + 1, Rudder chỉ còn 90 binh sĩ có thể chiến đấu. Đơn vị cứu trợ đã không đến kịp, cho đến ngày D + 2 thì các binh sĩ của Tiểu Đoàn chiến xa 743 và những đơn vị khác mới đến tiếp viện. Đến lúc đó, binh lính của Rudder đã hết đạn và đang sử dụng vũ khí lấy được của Đức. Hậu quả là một số người đã bị giết, vì vũ khí của Đức có tiếng nổ đặc biệt và những người này bị nhầm là kẻ địch. Đến cuối trận chiến, thương vong của Biệt Động Quân Hoa Kỳ là 135 chết và bị thương, trong khi thương vong của Đức là 50 chết và 40 bị bắt. Một số không rõ là bao nhiêu người Pháp cộng tác với Đức đã bị xử tử.

Bãi biển Omaha

Quân đội Mỹ trên tàu đổ bộ vào bãi Omaha
Bãi biển Omaha được bảo vệ nghiêm ngặt nhất, được giao cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Sư Đoàn 29 Bộ Binh của Hoa Kỳ. Họ phải đối mặt với Sư Đoàn 352 Bộ Binh của Đức thay vì một trung đoàn như đã dự đoán. Dòng nước biển chảy mạnh đã khiến nhiều tàu đổ bộ bị dạt về phía đông vị trí dự định hoặc khiến chúng bị trì hoãn. Vì sợ đánh lầm vào tàu đổ bộ, oanh tạc cơ của Mỹ đã trì hoãn việc ném bom và do đó, hầu hết các chướng ngại vật trên bãi biển ở Omaha vẫn còn nguyên khi những binh sĩ tiến lên bờ. Nhiều tàu đổ bộ bị mắc cạn trên bãi cát và binh sĩ phải lội nước từ 50 đến 100m để lên bờ trong khi nước biển ngập đến tận cổ và dưới lằn đạn của quân Đức từ trên cao bắn xuống. Bất chấp những vùng biển động, xe tăng DD của hai đại đội thuộc Tiểu Đoàn 741 đã được thả cách bờ 5,000 yard (4,600 m); 27 trong số 32 chiếc bị ngập nước và chìm cùng với 33 binh sĩ bị thiệt mạng. Một số xe tăng, bị vô hiệu hóa trên bãi biển, nhưng vẫn tiếp tục bắn yểm trợ quân bạn cho đến khi hết đạn hoặc bị ngập nước khi thủy triều dâng lên.

Số thương vong là khoảng 2,000, vì những binh sĩ đã bị bắn bởi quân Đức ở những vách đá cao trên bờ. Các vấn đề khó khăn gặp phải khi muốn dọn chướng ngại vật đã khiến các cấp chỉ huy trên bãi biển kêu gọi ngưng cuộc đổ bộ lúc 08:30. Một nhóm tàu khu trục đã đến vào khoảng thời gian này để yểm trợ hỏa lực cho cuộc đổ bộ có thể tiếp tục. Đường vượt qua bãi biển là năm khe nước, nhưng đã được quân Đức bảo vệ nghiêm ngặt, và mãi đến cuối buổi sáng, chỉ có gần 600 binh sĩ đã lên tới khu đất cao hơn. Đến trưa, khi hỏa lực pháo binh bắt đầu có hiệu quả và quân Đức đang gần hết đạn, quân Mỹ mới có thể dọn sạch một số khu vực trên bãi biển. Họ cũng bắt đầu dọn sạch các hàng phòng thủ của địch để xe có thể di chuyển khỏi bãi biển. Quân Đồng Minh đã có thể mở rộng được tầm kiểm soát ở bãi biển vào những ngày tiếp theo, và các mục tiêu của Ngày-D trên bãi biển Omaha đã được hoàn thành vào ngày D + 3.

Bãi biển Gold

Quân đội Anh đổ bộ lên Gold Beach
Cuộc đổ bộ đầu tiên trên bãi biển Gold được ấn định vào lúc 07:25 do sự khác biệt về thủy triều ở đó và các bãi biển ở Hoa Kỳ. Gió lớn đã tạo điều kiện khó khăn cho tàu đổ bộ và xe tăng DD đổ bộ được thả gần bờ hoặc trực tiếp trên bãi biển thay vì ở ngoài xa như đã dự tính. Ba trong số bốn ụ súng của Đức trong một vị trí lớn ở Longues-sur-Mer đã bị vô hiệu hóa bởi những tràng đại bác trực tiếp từ các tàu tuần dương Ajax và Argonaut vào lúc 06:20. Ụ súng thứ tư được sửa chữa và bắn liên tục vào buổi chiều, nhưng sau đó đơn vị đồn trú của Đức đã đầu hàng vào ngày 7 tháng Sáu. Các cuộc tấn công bằng phi cơ đã không thể đánh vào điểm mạnh Le Hamel, nơi có những họng súng hướng về phía đông để bắn dọc theo bãi biển và có một bức tường bê tông dày ở phía biển. Khẩu súng 75 ly của Đức tiếp tục gây thiệt hại cho quân đổ bộ cho đến 16:00 mới bị phá hủy bởi xe tăng của Công Binh Anh bắn một loại đạn công phá lớn vào phía sau. Một vị trí đóng quân thứ hai tại La Rivière với một khẩu súng 88 ly đã bị vô hiệu hóa bằng xe tăng lúc 07:30.

Trong khi đó, bộ binh bắt đầu dọn dẹp những ngôi nhà được trang bị kiên cố với vũ khí của Đức ở dọc bờ biển và tiến vào các mục tiêu xa hơn trong đất liền. Toán cảm tử 47 (Hải Quân Anh) di chuyển về phía hải cảng nhỏ tại Port-en-Bessin và chiếm được nó vào ngày hôm sau trong trận chiến Port-en-Bessin. Thượng Sĩ chỉ huy Stanley Hollis là người duy nhất đã được truy tặng Huy Chương Thánh Giá Victoria (Victoria Cross) trong Ngày-D vì hành động can đảm trong khi tấn công hai cứ điểm của địch ở Mont Fleury. Ở sườn phía tây, Tiểu Đoàn 1, thuộc Trung Đoàn Hampshire đã chiếm được Arromanches (địa điểm tương lai của Mulberry "B"), và liên lạc được với sườn phía đông của lực lượng Canada tại Juno. Quân Đồng Minh không chiếm được Bayeux trong ngày đầu tiên bởi sự kháng cự mạnh mẽ của Sư Đoàn 352 Bộ Binh của Đức. Thương vong của quân Đồng Minh tại Gold Beach ước tính khoảng 1,000.

Bãi biển Juno

Đội cảm tư "W" của Canada chuẩn bị đổ bộ xuống bãi biển 
Mike, một phần của bãi Juno Beach, ngày 8 tháng 7, 1944
Cuộc đổ bộ vào bãi Juno bị trì hoãn vì biển động, và những binh sĩ đã đổ bộ xuống bãi trước những chiến xa yểm trợ, đã phải chịu nhiều thương vong. Hầu hết các cuộc bắn phá từ ngoài khơi của Đồng Minh đã không trúng vào các tuyến phòng thủ của Đức. Một số lối để ra khỏi bãi biển đã được tạo lập với nhiều khó khăn. Tại bãi biển Mike ở sườn phía tây, một miệng núi lửa lớn được lấp đầy bằng một chiếc xe tăng AVRE bị hỏng và những vật liệu bị bỏ lại, và sau đó làm thành một cây cầu tạm thời. Chiếc xe tăng này được giữ nguyên cho đến năm 1972, sau khi nó được tháo gỡ và ráp lại như cũ bởi Công Binh Hoàng Gia Anh. Bãi biển và các đường phố gần đó đã bị tắc nghẽn trong phần lớn thời gian trong ngày, khiến việc di chuyển vào đất liền trở nên khó khăn.

Các điểm phòng thủ mạnh chính của Đức với súng 75 ly, súng máy, công sự bê tông, dây thép gai và mìn được đặt tại Courseulles-sur-Mer, St Aubin-sur-Mer và Bernières-sur-Mer. Các thị trấn cũng phải được giải tỏa trong cuộc chiến bằng các trận đánh qua từng nhà một (house-to-house fighting). Những binh sĩ trên đường tới Beny-sur-Mer, nằm trong nội địa cách bờ biển 3 dặm (5 km), đã phát hiện ra rằng đường cũng được phòng thủ bởi các ụ súng máy, và họ phải dẹp trước khi có thể tiến thêm về phía trước. Các binh sĩ của Lữ Đoàn 9 Bộ Binh Canada đã tiến gần đến sân bay Carpiquet vào cuối buổi chiều, nhưng vào lúc này, thiết giáp yểm trợ họ bị thiếu đạn nên họ đã phải dừng lại và tìm cách ẩn núp qua đêm. Họ đã không chiếm được sân bay, cho đến một tháng sau, khi khu vực này trở thành một bãi chiến trường ác liệt. Đến đêm, quân Đồng Minh đã kiểm soát hoàn toàn khu vực tiếp giáp giữa hai bãi Juno và Gold với một diện tích 12 dặm (19 km) bề dài và 7 dặm (10 km) bề ngang. Thương vong tại Juno là 961 binh sĩ.

Bãi biển Sword

Quân Anh đanh tìm chỗ tránh đạn sau khi
đổ bộ xuống bãi biển Sword
Trên bãi biển Sword, 21 trong số 25 xe tăng DD của đợt đổ bộ đầu tiên đã thành công trong việc lên bờ an toàn để cung cấp hỏa lực yểm trợ cho bộ binh, khi họ bắt đầu đổ bộ lên bãi lúc 07:30. Bãi biển đã bị gài rất nhiều mìn và đầy dẫy chướng ngại vật, khiến công việc của các đội dọn bãi biển trở nên khó khăn và nguy hiểm. Trong điều kiện gió và thủy triều đến nhanh hơn dự đoán, do đó việc di chuyển của xe thiết giáp gặp rất nhiều khó khăn. Bãi biển nhanh chóng bị tắc nghẽn. Các binh sĩ của đội Cảm Tử số 4 đã di chuyển qua Ouistreham để tấn công từ phía sau một đội phòng thủ của quân đội Đức ở trên bờ. Một tháp quan sát và kiểm soát tại vị trí này phải được bỏ qua và không được chiếm giữ cho đến vài ngày sau đó. Các lực lượng Pháp dưới quyền chỉ huy của Đại Úy Philippe Kieffer (những người lính Pháp đầu tiên đến Normandy), với sự trợ giúp của một trong những xe tăng DD, đã tấn công và dọn sạch các ụ phòng thủ kiên cố đã được Đức trang bị mạnh mẽ tại một sòng bạc ở Riva Bella.

Điểm phòng thủ kiên cố "Morris", ở gần Colleville-sur-Mer đã bị quân Đồng Minh chiếm giữ sau khoảng một giờ chiến đấu. Điểm phòng thủ "Hillman" gần đó, trụ sở của Trung Đoàn 736 Bộ Binh Đức, là một công sự phòng thủ lớn đã trải qua cuộc bắn phá suốt buổi sáng nhưng cũng không bị phá hủy, cho mãi đến 20:15 quân Đồng Minh mới chiếm được nơi này. Tiểu Đoàn 2 King's Shropshire Light Infantry bắt đầu tiến tới Caen bằng chân, đến trong khoảng một vài cây số của thị trấn, nhưng phải rút lui vì thiếu sự hỗ trợ của thiết giáp. Vào lúc 16:00, Sư Đoàn 21 Panzer của Đức đã tiến hành một cuộc phản công giữa Sword và Juno và gần như đã thành công trong việc tiến gần đến khu vực. Chúng đã gặp sự kháng cự mạnh mẽ của Sư Đoàn 3 của Anh và nhanh chóng rút lui về để yểm trợ cho khu vực giữa Caen và Bayeux. Ước tính thương vong của quân Đồng Minh trên Bãi biển Sword lên tới 1,000 binh sĩ.

Hậu quả

Cuộc đổ bộ Normandy là cuộc tấn công trên biển lớn nhất trong lịch sử chiến tranh, với gần 5,000 tàu đổ bộ và tấn công, 289 tàu hộ tống và 277 tàu vét mìn tham gia. Gần 160,000 quân đã vượt qua Eo Biển Anh Quốc (English Channel) trong Ngày-D, với 875,000 binh sĩ đã đổ bộ lên bãi vào cuối tháng Sáu. Thương vong của Đồng Minh trong ngày đầu tiên có ít nhất là 10,000 với 4,414 binh sĩ được xác nhận đã chết. Quân Đức mất 1,000 binh sĩ. Các kế hoạch tấn công của quân Đồng Minh dự tính sẽ chiếm giữ Carentan, St. Lô, Caen và Bayeux vào ngày đầu tiên, với tất cả các bãi biển (trừ Utah) được liên kết thành một chiến tuyến dài 10 đến 16 cây số dọc những bãi biển; không có một mục tiêu nào trong số này đạt được kết quả. Năm bãi biển không được kết nối (bắt tay nhau) cho mãi đến ngày 12 tháng 6, lúc đó quân Đồng Minh đã trải một mặt trận dài khoảng 97 km (60 mi) và sâu 24 km (15 mi) vào trong nội địa. Caen, một mục tiêu chính, vẫn nằm trong tay Đức vào cuối Ngày-D và đã không bị chiếm giữ hoàn toàn cho đến ngày 21 tháng 7. Quân Đức đã ra lệnh cho thường dân Pháp, ngoài những người được coi là thiết yếu cho nỗ lực chiến tranh, rời khỏi các khu vực có thể trở chiến trường ở Normandy. Thương vong dân sự vào Ngày-D và D + 1 được ước tính vào khoảng 3,000 người.

Chiến thắng ở Normandy bắt nguồn từ một số yếu tố. Các chuẩn bị của Đức để xây dựng công sự phòng thủ, được gọi là "Bức Tường Đại Tây Dương (Atlantic Wall)", dọc theo bãi biển chỉ được hoàn thành một phần; ngay trước Ngày-D, Thống Tướng Rommel của Đức đã báo cáo rằng việc xây dựng chỉ hoàn thành 18% ở một số khu vực vì tài nguyên đã được chuyển hướng đi nơi khác. Các cuộc đánh lừa quân sự của Đồng Minh được thực hiện trong Chiến Dịch đã thành công, khiến người Đức bắt buộc phải bảo vệ một dải bờ biển quá rộng lớn. Quân Đồng Minh đã đạt được và duy trì vũ lực trên không, điều đó có nghĩa là quân Đức không thể quan sát các công tác chuẩn bị đang diễn ra ở Anh và không thể cản trở bằng các cuộc oanh tạc. Cơ sở hạ tầng cho giao thông vận tải ở Pháp đã bị phá vỡ nghiêm trọng bởi các oanh tạc cơ của Đồng Minh và quân kháng chiến Pháp, khiến quân Đức gặp khó khăn trong việc đưa quân tiếp viện và tiếp tế. Một số cuộc bắn phá mở đầu của Đồng Minh không trúng mục tiêu hoặc không tập trung đủ để gây thiệt hại cho quân Đức, nhưng các loại thiết giáp chuyên dụng (specialised armour) hoạt động rất hữu hiệu, ngoại trừ ở Omaha, cung cấp pháo yểm trợ cho quân đội khi họ lên bờ. Sự thiếu quyết đoán và một hệ thống chỉ huy quá phức tạp về phía bộ chỉ huy cao cấp của Đức cũng là những yếu tố làm nên thành công của quân Đồng Minh.

Đài tưởng niệm chiến tranh và du lịch

Tại bãi biển Omaha, một phần của hải cảng Mulberry, người ta vẫn có thể nhìn thấy một vài chướng ngại vật của quân Đức đặt trên bãi biển còn lại cho đến ngày nay. Một đài tưởng niệm Vệ Binh Quốc Gia Hoa Kỳ (US National Guard) nằm ở vị trí của một điểm phòng thủ mạnh cũ của Đức. Pointe du Hoc có rất ít thay đổi kể từ năm 1944, với địa hình được bao phủ bởi các hố bom và hầu hết các công sự bê tông vẫn còn tại chỗ. Gần đó là Nghĩa Trang và Đài Tưởng Niệm quân Mỹ, Normandy American Cemetery and Memorial, ở Colleville-sur-Mer. Một viện bảo tàng về cuộc đổ bộ Utah được đặt tại Sainte-Marie-du-Mont, và có một khu dành riêng cho các hoạt động của các phi công Hoa Kỳ tại Sainte-Mère-Église. Hai nghĩa trang cho quân đội Đức cũng ở gần đó.

Cầu Pegasus, mục tiêu của Phi Đoàn 6 Anh, là nơi diễn ra một số hành động sớm nhất của cuộc đổ bộ Normandy. Cây cầu đã được thay thế vào năm 1994 bởi một hình dáng tương tự, và chiếc cầu chính hiện được đặt trong khuôn viên của một viện bảo tàng gần đó. Các phần của Mulberry Harbor B vẫn còn đến ngày nay trên biển tại Arromanches và khu xảy ra trận chiến ở Longues-sur-Mer đã được gìn giữ cẩn thận ở gần đó. Trung Tâm Bãi Biển Juno, khai trương năm 2003, được tài trợ bởi chính phủ liên bang và các tỉnh của Canada, Pháp và cựu chiến binh Canada.

Nghĩa trang tử sĩ Canada ở Bény-sur-Mer

Nghĩa trang của tử sĩ Đức ở gần Bayeux

Nghĩa trang tử sĩ Hoa Kỳ ở Normandy, nhìn xuống bãi biển Omaha


Tham Khảo:

Phim tài liệu: Ngày-D, 6 tháng 6 năm 1944, Cuộc Đổ Bộ ở Bãi Biển Normandy





Pages